image Báo chí Thông tin tuyên truyền
TRƯỜNG SA – HOÀNG SA: CHỦ QUYỀN KHÔNG THỂ CHỐI CÃI CỦA VIỆT NAM
Thứ 5, Ngày 19/12/2019, 00:00 SA Cỡ chữ Màu chữ image

Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ là trách nhiệm của từng người dân Việt Nam mà còn là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc đối với biển, đảo của đất nước.

Có thể khẳng định rằng, tất cả tài liệu nghiên cứu và tham khảo có giá trị về lịch sử xác lập, thực thi, bảo vệ chủ quyền tại biển Đông nói chung cũng như tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mà các nhà nghiên cứu, giới khoa học trong nước lẫn quốc tế đã và đang “có trong tay” đều khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chí ít hiện hữu từ thế kỷ XV.

Hình ảnh: Tổng hợp từ Internet

Quá trình khai phá, xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên các vùng biển, hải đảo ở Biển Đông, đặc biệt là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ thế kỷ XV cho đến nay đã được ghi chép cụ thể, cẩn thận trong rất nhiều tư liệu lịch sử được xác thực qua các bản đồ, thư tịch cổ...

Trên các diễn đàn và hội nghị quốc tế, giới nghiên cứu khẳng định rằng, cũng như các bản đồ Trung Quốc do chính nước này ấn hành trước giai đoạn 1947 - 1948 (thời điểm “đường lưỡi bò” phi lý chính thức xuất hiện) đều dừng ở đảo Hải Nam, những bản đồ do phương Tây vẽ qua các giai đoạn lịch sử cũng xác định rõ biên cương cực nam này của Trung Quốc. Điều này cho thấy sự nhất quán của các bản đồ phương Tây, khi thể hiện một cách khách quan, khoa học về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông.

Đơn cử, trong tấm bản đồ cổ (mang tên China Proper 1735) mà nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng khi tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào ngày 28/3/2014, trên đó thể hiện lãnh thổ Trung Quốc vào thời nhà Thanh với cương vực phía nam cũng chỉ kéo dài tới đảo Hải Nam.

Báo Thanh Niên dẫn nhận định của theo tạp chí Foreign Policy cho rằng, tấm bản đồ do nhà bản đồ học người Pháp Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville vẽ dựa theo khảo sát địa lý của các nhà truyền giáo dòng Tên ở Trung Quốc và được in tại Đức năm 1735. Dù Phó phát ngôn viên Georg Streiter của bà Merkel khẳng định “Đức không có ẩn ý gì” sau khi truyền thông phân tích về tấm bản đồ nhưng giới quan sát cho rằng tấm bản đồ một lần nữa thể hiện rõ giới hạn biên cương của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam và hoàn toàn không có liên hệ với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vốn thuộc chủ quyền Việt Nam.

Cái gì thuộc về lịch sử, luôn chuẩn xác và không thể xóa bỏ, bởi Việt Nam là quốc gia giữ chủ quyền của Hoàng Sa, Trường Sa thiêng liêng thông qua những cứ liệu, sử tịch quý giá.

Từ xác lập chủ quyền….

Trong tập sách Tổ quốc nơi đảo xa (NXB Văn hóa – Văn nghệ phối hợp với Báo Đại đoàn kết ấn hành năm 2014) có loạt bài viết dạng chuyên khảo nêu rõ các cứ liệu cho thấy từ rất lâu người Việt Nam đã phát hiện ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII đã rất có ý thức xác lập chủ quyền và thực tế đã tổ chức nhiều hoạt động khai thác tài nguyên, thực thi chủ quyền trên các quần đảo này.

Cụ thể, năm 1075, vua Lý Nhân Tông có sai Lý Thường Kiệt vẽ hình thế núi sông của ba châu Ma Linh, Địa Lý và Bố Chính. Những năm 1172-1173, nhân một cuộc đi tuần để quan sát núi sông và đời sống nhân dân, vua Lý Anh Tông ra lệnh cho các quan soạn ra bản địa đồ nước ta. Đời Trần, ngoài cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc trong đó có phần dành cho địa chí, theo các nhà nghiên cứu có khả năng còn có cuốn sử Việt ghi chép về địa lý nước ta như Việt sử Cương mục, Đại Việt sử ký...

Đời nhà Lê có quyển sách địa lý đầu tiên của người Việt Nam là cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Kế đến, theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Lê Thánh Tông có ra lệnh cho các quan thân trấn thủ xem xét địa hình núi sông hiểm trở thuộc địa phương mình vẽ thành bản đồ giao cho Bộ Hộ để lập thành bản đồ của lãnh thổ Đại Việt. Cuốn Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (hay Toàn tập An Nam lộ) của Đỗ Bá - Công Đạo được soạn vẽ theo lệnh Chúa Trịnh những năm niên hiệu Chính Hòa (1680-1705), căn cứ vào những chi tiết thu thập được từ thế kỷ XV. Có thể xem đây là một trong những tài liệu xưa nhất của Nhà nước phong kiến Việt Nam còn tồn tại đã ghi phần chú thích bản đồ và phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam với nội dung: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa). dài tới 400 dặm, rộng 20 dặm. Từ cửa Đại Chiếm đến cửa Sa Kỳ mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; gió Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn (Chúa Nguyễn) mỗi năm vào cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đây thu hồi hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”.

Tháng cuối mùa đông Âm lịch thường rơi vào tháng hai, tháng ba Dương lịch, khí hậu vùng Hoàng Sa đang vào mùa khô và quan trọng là không còn bão nữa. Đây là thời gian thuận lợi nhất để các Chúa Nguyễn sai người ra thu hồi hàng hóa của những chiếc tàu bị chìm trong khu vực Hoàng Sa. Chi tiết lịch sử này đã chứng tỏ một cách hùng hồn các hoạt động xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa thuộc về nước khác thì không thể có chuyện hàng năm, theo từng thời kỳ nhất định, hàng đoàn thuyền của người Việt cứ đều đặn ra Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) để chở hàng hóa quý giá về một cách ngang nhiên không bị ai phản ứng.

Trong Giáp Ngọ bình Nam đồ, bản đồ xứ Đàng Trong do Đoan Quận Công Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774, Bãi Cát Vàng cũng được ghi nhận là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, những tư liệu lịch sử còn sót lại cho thấy muộn nhất là vào thế kỷ XV đến thế kỷ XVII người Việt Nam đã từng ra vào Bãi Cát Vàng, tức quần đảo Hoàng Sa hiện nay.

Thậm chí, trong cuốn sách “Univers, histoire et decription de tous les peuples, de leurs religions moeurs et coutumes” viết năm 1833, Đức Giám mục Taberd cũng cho biết: “Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracels mà người Việt gọi là Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm rất nhiều hòn đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên giữa những bãi cát đã được người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ”. Đáng lưu ý là trong nguyên văn của vị giám mục này tên Cát Vàng được viết theo âm tiếng Việt (Paracels nommé par les Annamites Cát Vàng ou Hoang Sa).

Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) viết năm 1776 là tài liệu cổ mô tả chi tiết nhất về Hoàng Sa. Bộ sách gồm sáu quyển, trong đó quyển II có hai đoạn văn nói về Hoàng Sa. Đoạn thứ nhất viết: “Ở ngoài cửa biển lớn thuộc về địa phận xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa có một hòn núi mang tên là Cù lao Ré (tục danh của đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi). Chiều rộng núi này có thể hơn 30 dặm... Người ta ra biển rồi chèo thuyền đi bốn trống canh nữa có thể đến Cù lao Ré. Ở ngoài núi Cù lao Ré có đảo Đại Trường Sa ngày trước, nơi đây thường sản xuất nhiều hải vật được chở đi bán các nơi, nên Nhà nước có thiết lập một đội Hoàng Sa thu nhận các hải vật. Người ta phải đi ba ngày đêm mới đến được đảo Đại Trường Sa ấy”.

Đoạn thứ hai viết. “…Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh, gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Trên bãi vật lạ rất nhiều… Các thuyền ngoại phiên bị bão làm hư hại thường ở đảo này. Trước, họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Thu hồi được hóa vật của tàu như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng sứ, đồ chiến, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hàng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không.... Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Thứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là thu hồi các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi thu hồi được”.

Phủ biên tạp lục cũng chép rất rõ những hoạt động của đội Hoàng Sa ở phía Bắc, năm thứ 18 (1753) niên hiệu Càn Long có 10 lính Hoàng Sa bị bão trôi dạt vào cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Viên quan địa phương tra xét rõ nguyên nhân xong liền cho thuyền áp chở những người lính Hoàng Sa trở về nguyên quán. Điều này chứng tỏ từ xưa chính quyền Trung Quốc vẫn luôn tôn trọng quyền hành xử chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã không hề có phản ứng nào về những hoạt động của đội Hoàng Sa mà còn giúp đỡ những người lính Hoàng Sa khi họ gặp bão trôi dạt vào đất Trung Quốc.

… đến thực thi chủ quyền

Có thể khẳng định rằng, các thư tịch cổ Việt Nam còn lại đến nay cho thấy các triều đại phong kiến Việt Nam đã đặc biệt chú trọng tới vùng biển. Các hoạt động của triều đình Việt Nam không chỉ đơn giản là nhằm khai thác hải sản, các nguồn lợi kinh tế khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền quốc gia một cách hòa bình, liên tục trên các đảo và vùng biển liên quan. Việc khai thác, xác lập chủ quyền và quản lý lãnh thổ trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được cha ông ta, các bậc tiền nhân tiến hành từ rất lâu đời.

Nhiều bộ sách lịch sử của nước ta còn lại đến nay đã ghi nhận việc phân định hải giới giữa Đại Việt với láng giềng phương Bắc một cách trực tiếp vào năm Canh Dần (990). Đại Việt sử ký toàn thư chép, vào năm đó sứ Tống sang vua Lê Đại Hành “sai nha nội cho Chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem 9 thuyền dẫn 300 người đến Thái Bình Quân (nay là Quảng Đông, Trung Quốc) để đón”. Trong cuốn Hành lục tập, sứ giả Trung Quốc bấy giờ là Tống Cảo thừa nhận điều này: “Cuối thu năm ngoái, bọn Cảo chúng tôi tới hải giới Giao Chỉ, Nha nội đô chỉ huy sứ của Hoàn là Đinh Thừa Chính đem 9 chiến thuyền và 300 quân đến Thái Bình Trường để đón”. Việc vua Lê Thánh Tông cho lập bản đồ toàn quốc Hồng Đức bản đồ vào năm Canh Tuất (1990), trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa cho thấy trước đó hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền của Đại Việt và nhà Hậu Lê sau khi chiến thắng quân Minh đã hết sức quan tâm tới việc xác lập biên giới quốc gia, khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong đó có vùng biển, đảo. Căn cứ vào Hồng Đức bản đồ, Đỗ Bá - Công Đạo đã soạn ra bộ sách Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630 – 1653) ở quyển 1 có thể hiện địa mạo phủ Quảng Ngãi, phần chú thích trên bản đồ có nói tới Bãi Cát Vàng tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay. Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư theo lệnh của Chúa Trịnh những năm Chính Hòa (1689-1705) là văn kiện chính thức của Nhà nước phong kiến bấy giờ.

Hay nói cách khác “Bãi Cát Vàng” được ghi chú trong bản đồ phản ánh việc thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên Biển Đông trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa muộn nhất là vào thế kỷ thứ XV. Các Chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong cũng rất quan tâm quản lý, khai thác, xác lập và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa. Theo sử sách, việc thành lập đội Hoàng Sa phải có trước hoặc muộn nhất kể từ thời Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Khi Tây Sơn khởi nghĩa, chúa Nguyễn chạy vào Gia Định thì đội Hoàng Sa tiếp tục đặt dưới quyền kiểm soát của Tây Sơn. Ngay sau khi lên ngôi, chỉ một năm sau, vua Gia Long (1803) đã ra chỉ dụ củng cố đội Hoàng Sa. Năm 1815, vua Gia Long tiếp tục sai đội Hoàng Sa đi đo đạc thủy trình và vẽ bản đồ Hoàng Sa. Năm 1816, vua Gia Long cho cắm cờ quốc gia trên quần đảo Hoàng Sa và sai thủy quân ra đồn trú tại đây để thu thuế và bảo trợ ngư dân đánh cá trong vùng. Từ đó cho đến suốt thời kỳ nhà Nguyễn, thủy quân Việt Nam đều đặn đi vãng thám, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia chủ quyền và rất nhiều hoạt động khác để thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này.

Trong suốt thời Chúa Nguyễn, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn được đặt trong khu vực quản lý hành chính của Thừa Tuyên Quảng Nam dưới danh nghĩa nhà Lê, thuộc Quảng Ngãi lúc là phủ khi là trấn trong thực tế tự trị của xứ Đàng Trong. Bởi từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng (1600) cho tới khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa Chúa Nguyễn vẫn là quan trấn thủ Thừa Tuyên Quảng Nam của Đại Việt, do vua Lê trị vì. Do vậy, việc thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa của các Chúa Nguyễn vẫn dưới danh nghĩa triều đình Đại Việt. Phủ Quảng Ngãi có huyện Bình Sơn quản lý xã An Vĩnh. Sang đời Tây Sơn, phủ Quảng Ngãi được đổi tên thành phủ Hòa Nghĩa. Năm 1801, Hòa Nghĩa được đổi lại như cũ là Quảng Ngãi (hay Nghĩa do cách đọc), có bộ máy quan lại cai trị từ phủ đến xã. Đến đầu triều Nguyễn, khi dân hai phường Cù lao Ré phát triển, xin tách khỏi hai làng cũ ở đất liền trở thành nơi cung cấp dân binh chủ yếu cho đội Hoàng Sa. Đội trưởng Phạm Quang Ảnh năm 1815 là người xã An Vĩnh, đảo Cù lao Ré nay thuộc thôn Đông, xã Lý Vĩnh, tỉnh Quảng Ngãi.

Dù lịch sử chiến tranh cũng đã làm mất đi một số tài liệu, song các tài liệu cổ sử còn sót lại vẫn ghi nhận rõ ràng việc các vua chúa Việt Nam nhiều thời kỳ đã đặc biệt quan tâm xác lập chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nếu không có sự quan tâm và các chỉ dụ cụ thể như thế thì ngày nay sẽ không có những: Hồng Đức bản đồ (1490), Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630-1705) hoặc Thuận Hóa Quảng Nam địa đồ nhật trình có vẽ bãi Trường Sa ở phía ngoài xã Du Trường (tức Cù lao Ré) kèm chú thích đi mất hai ngày mới tới. Hay trước khi lên ngôi hoàng đế (1802) Nguyễn Ánh cũng từng nhờ người Pháp đo đạc giúp hải trình ở Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long tiếp tục chỉ dụ đo đạc, vẽ bản đồ ở Hoàng Sa và Trường Sa như đã trình bày ở trên.

Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long như Đức Giám mục Taberd viết rất rõ về việc này: “Vào năm 1816 Ngài (Gia Long) đã long trọng treo tại đó (Hoàng Sa) lá cờ của xứ Đàng Trong”. Hành động này là dấu mốc quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, nên nhiều người phương Tây chứng kiến đều khẳng định vua Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của mình trên quần đảo này trong sách của họ.

Thay lời kết: Các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử từ lâu đã chú ý đến cương vực lãnh thổ trên biển mà đặc biệt là khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bằng các hoạt động cụ thể, được sử liệu ghi chép đầy đủ, các triều đại phong kiến Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền một cách hòa bình và liên tục trong suốt nhiều thế kỷ.

Nguồn: Phòng Báo chí 

Trần Minh Tài
Lượt xem: 5919
Bản in Xuất tập tin Quay lại
Tin mới hơn
Bình luận
Ý kiến bạn đọc (0)
imageUser
Thông tin cá nhân
Bạn vui lòng để lại thông tin để gửi bình luận
Đóng
Lưu thông tin